問:
Bài kệ này gồm có 9 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, 1 câu 4 chữ, tuy số lượng từ dùng trong bài kệ rất ít nhưng rất súc tích, có tính khái quát rất cao. Do đó việc dịch nghĩa toàn bài một cách đầy đủ là không dễ. 9 đoạn được chia làm 3 phần như sau: Phần 1: Từ đoạn 1 cho đến đoạn 5 Phần nầy ngài phủ nhận tất cả phạm trù mà người ta chấp như : Chấp một bên hoặc chấp có, hoặc không, chấp cả hai, hoặc chấp có nương vào không mà tồn tại hoặc ngược lại. Đồng thời nêu lên những tác hại và vô ích của nó. Phần 2: Từ đoạn 6 cho đến 8 Phần này ngài giải thích rõ việc nói CÓ, KHÔNG chỉ là phương tiện diển đạt, tự nó không phải là cứu cánh hay tự nó không phản ảnh được toàn thể thực tại chân thật. Phần 3: Đoạn 9. Phần này ngài khẳng định chỉ khi nào cắt bỏ những giây giợ của những khái niệm CÓ, KHÔNG ta mới thực sự tự do, tự tại. Bài kệ này đã có nhiều người dịch, ngoài các bản dịch còn có bản giảng giải của Hòa Thượng Thích Thanh Từ. Tuy nhiên theo thiển ý của tôi hầu hết các bản dịch cũng như lời giảng vẫn còn nhiều chổ chưa rõ ràng, nhất quán và thỏa đáng. Vì vậy tôi xin dịch và giảng lại bài này trong cách hiểu biết của tôi. Trước hết như ta thấy toàn bài này nhằm trả lời cho câu hỏi “Câu có câu không như giây leo cây là gì? " Câu có, câu không nghĩa là chấp co, chấp không. Đây là cặp đối đải tiêu biểu cho tất cả các phạm trù đối đải khác như: Am - dương, phải - trái, trong - ngoài, chánh - tà , chân - ngụy v.v.. Đây là hai phạm trù triết học mà từ xưa tới nay các triết gia đã tranh luận không ngớt. Từ những tranh cải này đã sinh ra những phái chấp có, chấp không, người thì bảo vũ trụ thường hằng, kẻ bảo không, (người cho rằng mọi hành vi con người đều do một đấng tối cao điều khiển, kẻ khác lại bảo nó là kết quả của các tư duy và hành động của người ấy xuyên suốt từ quá khứ tới tương lai) hay nói khác hơn, người ta cố chia cắt thực tại thành những mảnh khác nhau, điều mà trên thật tế không làm được. Quan điểm của các thiền sư thì xem khái niệm có, không là chất liệu của khái niệm do đó tự nó đã là không thật thì làm sao dựa vào đó mà xác định một thực tại luôn sống động. Chính vì vậy đối với các thiền sư việc làm ấy là phi lí và vô nghĩa. Đây chính là tư tưởng chủ đạo xuyên suốt bài kệ của ngài Giác Hoàng Điều Ngự. Tuy ngôn ngữ cũng như ý tưởng mỗi đoạn có khác nhau nhưng tựu trung là bác bỏ cái ý tưởng tự đặc ra cho mình một quan điểm rồi dựa vào quan điểm ấy mà định nghĩa thế giới khách quan, trong khi thế giới khách quan luôn thay đổi. Do đó nhìn từ góc độ nào cũng đều phiến diện và đều không phản ảnh đúng thực tại, ngay từ đầu Ngài Điều Ngự đã khẳng định 1- Trước hết khi ai đó nói “không” thì rõ ràng nội hàm của từ “không” đã dựa trên khái niệm “có” do đó một trong hai vế không xuất hiện thì vế còn lại cũng không tồn tại. Ở đây ngài Trần Nhân Tông đã ví đây là dây khô cây ngã. Trong số đó không ít là thầy tu, cứ đi tìm một cái “có” đối lập với cái “không”, một việc làm vô ích, điên đảo. 2- Hằng hà sa số Do người ta cứ cho rằng co, không là hai phạm trù đối nghịch với nhau từ đó không ngừng tranh cãi và kết quả là bao nhiêu mâu thuẩn xảy ra, cũng như sương với gió luôn đi liền với nhau, nhưng cũng không ngừng tác động lên nhau. Ở đây ngài TNT ví sương là thể, tạm dịch là Thân, còn gió là sắt, Thân thì mềm còn sắt thì cứng, cho nên nếu cứ tiệp tục đối chọi lẩn nhau thì sẽ gây cho nhau vô số vết thương. Ngày nay chúng ta thấy những giòng chảy của tư tưởng hửu ngã đang đụng độ nhau mãnh liệt, và kết quả như thế nào thì đã quá rõ. Trong đoạn này chỉ có câu “ Thể lộ kim phong” là cần phải giải thích. Hầu hết các bản dịch đều dịch là “thể lộ gió thu”. Tuy nhiên chỉ có Hòa Thượng Thích Thanh Từ chú giải. Ngài viết “Khi người ta chấp câu có câu không tức là chấp hai bên, thì cái chân thật hiện tiền người ta không bao giờ thấy, cũng như vào mùa thu lá rụng hết thân cây bày trơ trọi nhưng không ai thấy rõ” (Tam Tổ Giảng Giải tr 106). Ở đây tôi dịch “Thân sương gió sắt” là vì câu thứ 2 mỗi đoạn luôn là một câu có hai vế đối nhau rõ ràng. Ví dụ: đoạn 1 : dây khô cây ngã, đoạn 3 : lập chỉ lập tông, đoạn 4: phi hửu phi vô. Ở đây là vế đầu “thân sương” vế sau “gió sắt” ai cũng biết “Sương và gió thường được nói liền với nhau , cũng như ở trên “dây khô – cây ngã” hay đoạn sau “Lập chỉ – lập tông” do đó dịch “thể lộ gió thu” thì khó hiểu. 3- Do chủ trương “có” hay “không” người ta lập ra nhiều tông phái khác nhau để bảo vệ lập trường của mình. Ngay trước thời Đức Phật đã có nhiều phái chủ trương “Am thanh thường còn” phái khác thì cho rằng “âm thanh không thường còn”. Đối với ngài TNT thì ngài cho rằng đó là những việc làm vô ích, điên đảo và mộng mị. Ngài ví điều đó như “Đập ngói đục rùa”. Rùa ở đây là rùa đá, người ta thường đục đá hình con rùa để mang tấm bia, thờ ở các nơi trang nghiêm như đình, chùa. miếu. Ngói thì bằng đất nung, tuy có cứng nhưng sao cứng bằng đá được, vậy cho nên đập ngói ra để lấy những mảnh vỡ có mủi nhọn để đục rùa đá là chuyện nực cười. Đất với đá là hai khái niệm thường đi liền với nhau, đất thì mềm, đá thì cứng, làm sao mà lấy cái mềm mà đục cái cứng cho được. Đây là một việc làm vô bổ, đảo điên. Cũng như lên non mà lội nước vậy. Qua đây ta có thể nghĩ rằng vè nói ngược có lẽ đã xuất hiện rất sớm ở nước ta. Câu nầy HT TTT giảng rằng “Đã ngõa toản quy" là dùi rùa để lấy lửa mà nấu cơm, (như ngày xưa người ta thường cọ xát hai thanh tre khô để lấy lửa), mà gạo ở đây là ngói đập ra”. Tự cái việc lấy ngói nấu cơm là một việc làm ngu ngốc rồi, cho dù có dùi rùa ra lửa đi nữa thì có cần không?. 4- Đoạn này ngài nói không chấp có hay không chấp không, không có nghĩa là chấp cả hai bên, vì ngài biết rằng đến đây người hỏi có thể nghĩ rằng nếu không chấp có mà cũng chẳng chấp không vậy là chấp cả có lẫn không? Do đó ngài nói đoạn này để minh định rằng cho dù chấp gì cũng là sản phẩm của ngã kiến, mà đã là ngã kiến thì chính là nguồn gốc của mọi mâu thuẩn, hậu quả của nó là hạn chế tự do tư tưởng và dẩn đến khổ đau, tự nó là hý luận và vô ích như việc làm dấu trên thuyền để sau tìm kiếm đã rơi xuống sông, hay căn cứ vào tranh mà tìm ngựa tốt vậy. 5- Đoạn này ngài lại trả lời cho câu hỏi “không chấp có, chẳng chấp không, cũng chẳng chấp cả có lẫn không, vậy chắc phải chấp rằng “Cả hai dựa vào nhau mà tồn tại ”. Cũng như những đoạn trước ngài cũng phủ nhận cách lập luận đó, ngài minh họa điều đó như nón làm bằng tuyết hay hài làm bằng hoa, cũng như ôm cây đợi thỏ chạy đâm vào cây chết khỏi mất công tìm bắt, những vịêc đó đều là vô bổ. 6- Đến đây ngài cho người hỏi hiểu rằng chuyện lập ngôn CÓ – KHÔNG chỉ là phương tiện, nhưng xưa nay người ta cứ tranh cải có, không, đâu biết rằng ngôn ngữ chỉ là phương tiện, cũng như ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để thấy mặt trăng, không nên lầm lẫn ngón tay là mặt trăng, bởi vì đó là chuyện sai lầm, mộng mị, tương tự như thế là việc chìm trên đất bằng. Đã nói chìm là nói đến nước, vậy mà ở đây là trên đất bằng thì làm sao chìm được, đây là cách nói phê phán sự vô lý, vô lý như xem ngón tay là mặt trăng vậy. 7- Trong tinh thần dùng phương tiện để chỉ cứu cánh, muốn làm cho người ta hiểu đạo thì phải dùng lời nói. Vấn đề là hành giả phải biết rằng Đạo không phải là ngôn từ, “Ý tại ngôn ngoại” mở miệng nói ra, đều không khỏi mũi”. Dịch như thế có nghĩa là tôi hiểu hai câu này hoàn toàn khác với những người dịch bài này từ trước đến nay. Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch: “Chữ bát mở ra, sao không nắm mũi?” (TTGG tr 112) Nguyễn Lang dịch : “Tám chữ tháo tung, không nơi bám víu” VNPGSL – C1 – T 361 Lê mạnh Thát dịch: “Tám chữ mở toang, không còn mũi rẩy” (Trần Nhân Tông Con người và Tác phẩm ch II Bài giảng chùa Sùng nghiêm) . Hòa Thượng Thích Phước Sơn dịch: “Tám chữ tháo tung, toàn không manh mối” (tam tổ thực lục VNCPHVN 1995 tr 29) Trong 4 cách dịch trên Nguyễn Lang có chú thích tám chữ là “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Hòa Thượng Thích Thanh Từ thì viết rằng : “Bát tự là chữ bát nhưng có chỗ giải nghĩa bát tự là tám chữ, rồi dẫn Kinh niết Bàn câu “Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”. Đây là một lầm lẫn vì không hiểu được ý nhà thiền. Hai chân mày chúng ta nằm hai bên, ở giữa hở giống hình chữ bát của chữ Hán. Chữ bát mở ra là hai chân mày đã mở trống, liền đó chụp lấy lổ mũi, tức là phương tiện đã bày ra rồi thì phải nhận ra chổ cứu cánh”.(TTGG tr 112) Hai dịch giả còn lại không giải thích gì. Như đã trình bày ở trên, tôi dịch hai câu này là “Mở miệng nói ra, đều không khỏi mũi”. Sở dĩ tôi dịch “Bát tự đã khai” là “Mở miệng nói ra” là vì tôi cho rằng chữ bát là hình môi trên, phàm khi nói thì phải mở môi, do đó trong văn học người ta thường dùng môi để biểu thị cho lời nói như : đầu môi chót lưỡi, chẳng hở môi, mật ngọt trên môi. Trước đó trong lần nói chuyện ở chùa ? trả lời một vị Tăng ngài TNT cũng đã dùng chữ này. “Vị tăng hỏi thêm: “Cứu cánh thế nào?” ngài dạy “ át tự đã khai phân phó liễu, cánh dư vô sự khả trình quân”. Ta dể dàng hiểu rằng ngài nói “những gì đáng nói đã nói rồi, còn chi đâu nữa nói cùng ông”. (Trên thực tế hai lông mày của mọi người không giống chữ bát, trừ lộn ngược đầu). Còn câu “Toàn vô ba tỷ” tôi dịch là “Đều không khỏi mũi” có nghĩa rằng muốn mở miệng nói thì không thể không lấy hơi từ mũi, hay nói khác hơn là đều không khỏi bị mũi chi phối. Trở lại bài kệ của ngài TNT thì ở đoạn 7 ngài đã nói đừng chấp vào phương tiện mà quên cứu cánh. Tiếp đến đoạn này ngài lại nói nhưng muốn chỉ cho hành giả cứu cánh thì không thể không dùng phương tiện, phương tiện ở đây là lời nói hay ngôn ngữ, ngôn ngữ không chưa đựng Đạo nhưng nó dẩn ta tới với đạo, làm cho ta hiểu và tu Đạo và cuối cùng là ngộ Đạo. Khi ngộ Đạo rồi (tới chỗ cứu cánh) thì mới nghĩ tới “ngôn ngữ đạo đoạn” hay “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” 8- Tất cả chỉ vì chấp vào ngôn từ mà tạo ra bao nhiêu mâu thuẩn, việc cứ tiếp tục tranh cải chỉ là hý luận mà thôi. 9- Do đó khi biết rằng, Đạo vốn viên dung, vượt ngoài ngôn ngữ thì chuyện có, không chỉ là mộng mị, buông hết lo âu, cạn nguồn trói buộc thì lúc ấy mới thấy tự tại. |
||